BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: "Nâng cao tỷ lệ giúp trẻ 24-36 tháng tuổi ham thích đến lớp thông qua một số hoạt động trong trường mầm non”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng chăm sóc giáo dục trẻ.
3. Tác giả:
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
II. Mô tả giải pháp đã biết
Giáo dục mầm non có vai trò rất quan trọng đối với trẻ nhà trẻ, nó giúp trẻ phát triển hài hòa về các mặt thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm kỹ năng xã hội và thẩm mĩ. Trẻ lần đầu tiên trong cuộc đời xa vòng tay của bố mẹ, của gia đình để đến với môi trường mới, mọi thứ đối với trẻ còn lạ lẫm, bỡ ngỡ, chưa có nề nếp trong mọi hoạt động, trẻ nhút nhát, sợ sệt, có thái độ không ăn, không ngủ, hay thậm chí có những trẻ quá sợ hãi mà khóc lóc, chạy chốn khỏi lớp...
Trẻ trong độ tuổi mầm non được đến trường sớm sẽ giúp trẻ thích nghi với môi trường sống sớm, trẻ tự lập sớm hơn. Trẻ đến trường được cô chăm sóc giáo dục theo chương trình giáo dục mầm non giúp trẻ phát triển toàn diện mọi mặt theo các lĩnh vực.
Ở lứa tuổi này đang rất cần sự quan tâm chăm sóc yêu thương. Bởi vậy khi rời xa vòng tay gia đình đến trường trẻ phải cảm nhận được tình yêu thương chăm sóc đó thì trẻ sẽ ham thích đến trường lớp.
Đã có nhiều giáo viên nghiên cứu đến vấn đề này và có các giải pháp áp dụng hiệu quả. Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi đã tham khảo một số sáng kiến như:
Sáng kiến: “Một số giải pháp giúp trẻ tuổi 24-36 tháng yêu thích đến lớp” của cô giáo Vũ Thị Hà Trường Mầm Non Quang Trung với những giải pháp:
+ Giúp trẻ thích thú đến lớp thông qua các trò chơi.
+ Cần tạo ra nhiều góc chơi để thu hút trẻ
+ Nâng cao tinh thần chăm sóc trẻ.
+ Tuyên truyền với phụ huynh.
Sáng kiến: “Giải pháp giúp trẻ 24-36 tháng sớm thích nghi với môi trường mầm non” của cô giáo Đỗ Thị Lan Trường Mầm Non Chim Sơn Ca có 4 biện pháp:
+ Xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp với độ tuổi.
+ Giáo viên tạo sự gần gũi quan tâm trẻ.
+ Rèn thói quen nề nếp cũ và mới cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
+ Tuyên truyền với phụ huynh.
Qua nghiên cứu và tham khảo những sáng kiến trên, tôi nhận thấy các biện pháp của sáng kiến có những ưu điểm và hạn chế như sau:
* Ưu điểm:
Những sáng kiến trên của đồng nghiệp đã từng bước góp phần giúp trẻ ham thích đến lớp
Các sáng kiến trên đã đưa ra một số giải pháp tập trung vào việc làm thế nào để trẻ hứng thú, thích nghi với trường mầm non ở giai đoạn đầu tiên trẻ mới đi
và được áp dụng có hiệu quả tại đơn vị của tác giả.
Phụ huynh đã kết hợp cùng giáo viên.
* Những tồn tại, hạn chế:
Các biện pháp của các đề tài trên chưa đưa ra những biện pháp thực tế hữu hiệu để giúp trẻ nhà trẻ yêu thích, ham thích đến lớp.
Nội dung sáng kiến chưa nêu bật được tầm quan trọng, vai trò của việc giúp trẻ nhà trẻ sớm làm quen và thích nghi với môi trường Trường mầm non.
Giáo viên chưa chú trọng đến việc xây dựng môi trường lớp học tạo gần gũi cho trẻ, việc tạo môi trường còn sơ sài, chưa đa dạng để thu hút sự chú ý của trẻ, chưa chú trọng đưa nội dung này vào lồng ghép xây dựng môi trường giáo dục.
Giáo viên chưa bám sát vào tình hình thực tế của lớp mình, chưa nắm chắc, chưa tìm hiểu kỹ về đặc điểm tâm sinh lý trẻ để giúp cô đến gần trẻ.
Giáo viên chưa có nhiều hình thức sáng tạo trong mọi hoạt động của lớp để thu hút sự chú ý của trẻ.
Việc tuyên truyền đến phụ huynh còn hạn chế, chưa thường xuyên trao đổi và chưa có những tác động qua lại với giáo viên về tình hình của trẻ.
Tỷ lệ trẻ đến trường lớp chưa cao.
Đối với giáo viên mầm non công tác phát triển số lượng, nâng cao tỉ lệ trẻ đi học, ham thích đến lớp đối với trẻ nhà trẻ là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong các nhà trường.
Nhận thức được điều đó để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ 24-36 tháng tuổi tại lớp NT1 trường mầm non Quang Trung. Tôi đã mạnh dạn lựa chọn sáng kiến “Nâng cao tỷ lệ giúp trẻ 24-36 tháng tuổi ham thích đến lớp thông qua một số hoạt động trong trường mầm non” với mục đích rèn nề nếp, thói quen hàng ngày cho trẻ một cách có hiệu quả. Giúp trẻ có thói quen hàng ngày ham thích đến lớp đưa trẻ vào nề nếp một cách tự nhiên, tích cực. Giúp giáo viên trở thành người mẹ thứ hai, là người bạn chia sẻ mọi cảm xúc của trẻ, hiểu hơn về tâm lý trẻ, có được sự tin yêu của phụ huynh.
Để đáp ứng được các yêu cầu đó tôi đã đưa ra một số giải pháp sau:
Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch, tạo môi trường lớp học sạch sẽ, thân thiện, an toàn, đồ dùng đồ chơi phong phú.
Giải pháp 2: Tìm hiểu để nắm bắt tâm lý của trẻ, tạo được niềm tin với trẻ.
Giải pháp 3: Cô luôn gần gũi yêu thương chăm sóc tổ chức các hoạt động thu hút trẻ để trẻ cảm nhận được như đang ở gia đình.
Giải pháp 4: Tổ chức phối hợp chặt chẽ với phụ huynh.
III. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến:
III.1 Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến.
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nền tảng của cả hệ thống giáo dục. Đặt nền móng cho sự phát triển về thê chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm kỹ năng xã hội cho trẻ. Giáo dục mầm non sẽ chuẩn bị cho trẻ những kỹ năng tự lập, khả năng diễn đạt. Cho trẻ đi học sớm mang lại lợi ích lớn cho trẻ giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
Trẻ ở độ tuổi 24-36 tháng tuổi đang sống trong sự bao bọc, che chở của gia đình, chưa được tiếp xúc nhiều người trong xã hội. Trẻ ở độ tuổi này còn rất non nớt nên khi đi học sớm các con sẽ khóc rất nhiều. Lúc này, những người chăm sóc các con sẽ là các cô giáo những người xa lạ với con và việc thay đổi môi trường sống cũng làm ảnh hưởng đến tâm lí của trẻ. Trẻ sẽ phản kháng lại việc đi học bằng cách khóc nhè hay chống đối với phụ huynh khi ở nhà.
Đa số phụ huynh ở trường là công nhân nên thường không có thời gian đưa đón con đi học. Tôi thường trao đổi trực tiếp thông qua ông bà. Khi cho trẻ đi học, bố mẹ nhờ cậy sự giúp đỡ, chăm sóc của cô tới các con nhưng thời gian đầu đi học các con chưa quen cô, chưa quen bạn, chưa quen với môi trường mới cũng như chế độ sinh hoạt trong ngày.Trong thời gian đầu,trẻ sẽ rất dễ bị ốm, nôn trớ hay giật mình quấy khóc. Nhiều bố mẹ nhìn thấy con như vậy nên rất dễ mềm lòng thương con và cho con nghỉ chỉ sau ngày đầu đến lớp.
Vì thế để các con tích cực đến lớp, thích đi học và để cho phụ huynh yên tâm cũng như hiểu được tầm quan trọng của việc cho trẻ đi học sớm nên tôi lựa chọn đề tài "Nâng cao tỷ lệ giúp trẻ 24-36 tháng tuổi ham thích đến lớp thông qua một số hoạt động trong trường mầm non” để nghiên cứu và thực hiện nhằm góp phần nâng cao tỷ lệ trẻ đến trường trong độ tuổi 24-36 tháng.
III.1.1 Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch phù hợp, tạo môi trường lớp học sạch sẽ, thân thiện, an toàn, đồ dùng đồ chơi phong phú.
Như chúng ta đã biết, môi trường giáo dục trong trường mầm non là hết sức cần thiết nhằm thoả màn nhu cầu học tập, vui chơi của trẻ, thông qua đó nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển toàn diện, chính vì vậy khi xây dựng môi trường phải hướng vào trẻ để trẻ được chủ động, thích cự tham gia vào các hoạt động vui chơi, khám phá, trải nghiệm theo phương châm “học mà chơi, chơi bằng học”
Trường học thân thiện của lứa tuổi mầm non là nơi không chỉ tạo điều kiện, cơ hội an toàn cho trẻ vui chơi, học tập mà còn là môi trường sống lành mạnh, an toàn, nơi đó trẻ được đối xử công bằng, được quan tâm chăm sóc, giáo dục, được bảo vệ và tích cực tham gia vào quá trình học tập để phát triển một cách toàn diện.
Vì vậy việc tạo môi trường lành mạnh, thân thiện, an toàn trong lớp học mầm non là một trong những yếu tố quan trọng để xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.
Trước khi vào năm học mới, tôi giành thời gian dọn dẹp trang trí lớp học sao cho sạch sẽ thoáng mát. Môi trường bên trong và bên ngoài lớp học trang trí những hình ảnh độc đáo, nội dung trang trí đầy đủ, phù hợp với chủ đề chủ điểm. Đầu năm, trẻ lần đầu tiên đi học, lần đầu tiên được làm quen với nhiều người và sống trong môi trường mới nên tôi lựa chọn hình ảnh ngộ nghĩnh, gần gũi với trẻ để trẻ cảm thấy môi trường ở lớp cũng như môi trường ở nhà.
Tôi luôn tìm tòi sáng tạo để làm thêm nhiều góc chơi đẹp: Góc thao tác vai, góc hoạt động với đồ vật, góc nghệ thuật, góc vận động, góc bé ngoan, góc sinh nhật,…Các góc tôi đều trang trí thật đẹp và ngộ nghĩnh, sáng tạo, hấp dẫn trưng bày nhiều đồ chơi nhằm thu hút sự chú ý của trẻ.
Tạo môi trường trong và ngoài lớp luôn lấy trẻ làm trung tâm. Trẻ được tìm tòi khám phá tất cả đồ dùng, đồ chơi, cô không gò ép trẻ, để trẻ thoả mãn nhu cầu vui chơi, khám phá, khuyến khích trẻ tích cực hoạt động.
Mỗi buổi sáng đến trường trẻ sẽ vui thích khi vào lớp và đến ngay các góc để chơi, đến chủ đề mới tôi lại trang trí thay hình ảnh, đồ dùng đồ chơi trong lớp để trẻ xem và chơi với đồ chơi. Trẻ sẽ vui vẻ, ham thích đến lớp mỗi ngày để khám phá những điều mới lạ tại lớp học của mình.
III.1.2 Giải pháp 2: Tìm hiểu để nắm bắt tâm lý của trẻ, tạo được niềm tin với trẻ.
Xuất phát từ tâm lý của trẻ nhà trẻ, trẻ đang sống trong môi trường gia đình được yêu thương bao bọc. Lần đầu tiên trẻ đến trường, được tiếp xúc với nhiều người trong xã hội. Trẻ con đang trong độ tuổi non nớt, khóc nhiều vì chưa quen cô, quen bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt. Trẻ không cùng tháng tuổi, mỗi trẻ đều có sở thích và tính cách khác nhau.
Trẻ em rất nhạy cảm nên trẻ cần được quan tâm nhiều hơn về xúc cảm, nhất là trong những ngày đầu đi học. Nếu không xử lý khéo léo, cô giáo có thể vô tình khiến trẻ sợ hãi và sinh ra một vài tâm lý tiêu cực nhất định, từ đó dẫn đến trẻ khóc đêm, biếng ăn, hay la hét. Vì thế, nghệ thuật giao tiếp với trẻ trong những thời gian đầu là hết sức cần thiết và quan trọng.
Nên việc thường xuyên quan sát và điều tra thực tiễn giúp cho giáo viên nhìn nhận chính xác được về tình trạng thực tiễn của lớp mình từ đó đưa ra các hoạt động điều chỉnh đến từng cá nhân trẻ. Bởi những ngày đầu tiên đến trường cô giáo phải là người bạn đáng tin cậy của trẻ. Khi được ba mẹ đưa đến lớp những ngày đầu tiên trẻ thường ôm chặt lấy ba mẹ không muốn rời xa và nhìn xung quanh một cách dò xét.
Nếu lúc đó cô giáo đến ôm chầm và tách rời trẻ ra khỏi tay mẹ thì tôi nghĩ trẻ sẽ rất ghét và rất sợ cô, sợ đi học. Chính vì thế khi tiếp xúc lần đầu tiên với trẻ tôi chỉ chào hỏi, cười và làm quen với trẻ, làm quen với phụ huynh. Sau đó trò chuyện với phụ huynh và từ từ vuốt ve trẻ, kế đến là nắm tay trẻ thật nhẹ nhàng, đó là bước khởi đầu để trẻ cảm thấy an lòng. Sau đó trưng bày đồ chơi hoặc tổ chức cho cả lớp cùng chơi một trò chơi nào đó nhằm gây hứng thú cho trẻ và quan sát biểu hiện của trẻ.
Tuy nhiên nhiều trẻ vẫn chỉ ngồi trong lòng mẹ mà không chịu chơi cùng bạn. Tôi vẫn tiếp tục cùng phụ huynh trò chuyện về thói quen, tập quán của trẻ để dễ dàng thích nghi với trẻ, cho đến khi trẻ cảm thấy sự gần gũi giữa mẹ và cô, từ đó trẻ sẽ chơi với cô và các bạn trong lớp.
Trong thời gian đầu tùy theo cá tính của từng trẻ tôi luôn chiều trẻ để trẻ cảm thấy an tâm trong môi trường mới. Tôi có thể đáp ứng những thói quen không đẹp của trẻ như ngồi đưa chân lên ghế bạn khác đang ngồi, đi vệ sinh không gọi cô, chạy ra khỏi chỗ, vứt đồ chơi lung tung, ăn quà trong giờ học, bắt cô ẵm bồng… Rồi từ từ sau đó, khi bé quen rồi tôi sẽ cho bé thực hiện các nề nếp, vệ sinh, xếp hàng, thu dọn đồ chơi, ngồi vào chỗ trong giờ hoạt động hay trong giờ ăn… dưới hình thức luyện tập, thông qua câu chuyện, làm mẫu của cô.
Và kết quả mà tôi thu được đó là các con khi đến lớp thường tự nhiên thích và theo cô vào trong lớp hơn bố mẹ. Hễ đến lớp mà thấy cô đó thì yên tâm đi vào và trẻ sẽ không khóc. Chính vì vậy khi chia tay các con vào các buổi chiều thì các con rất lưu luyến với cô.
Việc tìm hiểu tâm lý, tính cách, thói quen của trẻ khi ở nhà giúp giáo viên nhanh đến gần với trẻ hơn. Giúp giáo viên tìm ra cách thu hút trẻ đến với mình, cho trẻ cảm thấy yên tâm khi ở với cô giáo. Từ đó trẻ sẽ không khóc khi đi học, đòi đi học để được chơi với cô và các bạn.
III.1.3 Giải pháp 3: Cô luôn gần gũi yêu thương chăm sóc tổ chức các hoạt động thu hút trẻ để trẻ cảm nhận được như đang ở gia đình.
Giáo viên mầm non không chỉ là nhà giáo đơn thuần mà là ca sĩ, nghệ sĩ, là người mẹ thứ hai của trẻ. Ở lứa tuổi mầm non còn non nớt, chưa phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý, dễ nhạy cảm với mọi hoạt động xung quanh. Trẻ dễ bị thu hút bởi những điều mới lạ. Tôi thường xuyên thay đổi hình thức hoạt động để thu hút sự chú ý của trẻ, giúp trẻ nhanh chóng quên đi sự lạ lẫm và nhanh chóng bắt nhịp cùng các bạn. Giáo viên chính là người tạo cơ hội hướng dẫn gợi mở các hoạt động tìm tòi của trẻ, trẻ chủ động tham gia các hoạt động để phát triển khả năng, năng lực của cá nhân, phải khắc phục được những hạn chế và kế thừa những mặt mạnh.
Với hoạt động đón trả trẻ: Cô luôn nở nụ cười thân thiện, đón cháu với thái độ nhẹ nhàng, vui vẻ, niềm nở, ân cần,…bằng cách ôm trẻ vào lòng, nựng nịu, vuốt ve, hỏi thăm trẻ, cười đùa với trẻ để trẻ thấy như được người thân ôm ấp, vỗ về và không thấy mình bị lạc lõng, bỏ rơi.
Vào hoạt động có chủ đích:Tôi lựa chọn chuẩn bị những đồ dùng có màu sắc đẹp, hình ảnh sống động, hấp dẫn để thu hút sự chú ý của trẻ, nhằm giúp trẻ quên đi việc khóc nhè.
Tiếp đến hoạt động với đồ vật: Tôi cho trẻ tự đưa ra lựa chọn vào góc chơi trẻ thích, trẻ có thể thay đổi góc chơi, thay đổi bạn chơi theo sự hướng dẫn của cô. Giao bài tập cho trẻ để trẻ thấy được tầm quan trọng của mình trong góc chơi.
Trong hoạt động vệ sinh-ăn-ngủ: Tôi luôn gần gũi chăm sóc trẻ như người mẹ thứ hai. Tôi tạo cho trẻ thói quen nề nếp rửa tay rửa mặt trước khi ăn. Với độ tuổi 24-36 tháng tuổi, vệ sinh cá nhân trẻ không thể tự làm được cần sự hỗ trợ của cô giáo với hoạt động này tôi luôn dùng những cử chỉ âu yếm, thân mật và lời nói nhẹ nhàng để hướng dẫn và chỉ bảo các con.
Những ngày đầu đến lớp trẻ sẽ không ăn được nhiều do ăn không giống như khi ở nhà nên tôi cho trẻ ăn theo sở thích của trẻ, trẻ ít khóc ăn trước trẻ khóc nhiều ăn sau, tôi luôn ôm ấp vỗ về nịnh trẻ ăn tránh việc trẻ bỏ bữa ảnh hưởng đến sức khỏe.
Giấc ngủ trưa của trẻ vô cùng quan trọng. Đây chính là thời gian trẻ được nghỉ ngơi và tâm lý được thả lỏng. Ở nhà, trẻ được bố mẹ ông bà vỗ về ôm ấp nên khi đến lớp cũng vậy tôi luôn vỗ về chăm sóc tạo sự tin tưởng của trẻ đối với mình để trẻ có được giấc ngủ ngon không giật mình thức giấc khi ngủ.
Đến với hoạt động chiều: Hoạt động chiều là thời gian mà hầu hết trẻ ít khóc hơn lúc sáng, trong thời gian này cô tìm những nội dung để trò chuyện với trẻ về kỹ năng sống những trò chơi vui nhộn, sôi động để trẻ có tâm lí thoải mái nhất trước khi về với ông bà bố mẹ.
Chúng ta có thể thấy rằng, một ngày hoạt động của trẻ tại trường mầm non chiếm đa số thời gian hoạt động trong ngày và cô giáo đóng vai trò rất quan trọng trong đó. Cô giáo ở bên trẻ cả ngày, cùng trẻ tham gia tất cả các hoạt động. Trẻ có thích đến trường hay không phụ thuộc rất nhiều vào cô giáo.
Mỗi cô có một cách thu hút, quan tâm trẻ, chăm sóc trẻ khác nhau. Riêng đối với bản thân tôi, tôi luôn dành tất cả tình yêu, sự tâm huyết của mình đối với trẻ, giúp trẻ cảm thấy ấm áp, vui vẻ mỗi khi ở lớp, để trẻ cảm nhận cô giáo như người mẹ thứ hai của mình.
Và với biện pháp này, trẻ ở lớp tôi đã có những kết quả rất tích cực. Trẻ rất vui vẻ khi tham gia các hoạt động cùng cô và các bạn. Như tôi đã nói, tâm lý trẻ rất nhạy cảm, tò mò ham hiểu biết. Nên mọi thứ mới lạ đều hấp dẫn, thu hút trẻ. Từ đó tạo tâm lí phấn khởi, hào hứng cho trẻ trong mỗi ngày đến lớp. Cảm giác lạ lẫm ban đầu sẽ mau chóng quên đi.
III.1.4 Giải pháp 4: Chú trọng làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với phụ huynh.
Thực tế đã chứng minh phụ huynh đóng vai trò thiết yếu và không thể thiếu trong quá trình thực hiện việc hợp tác cần thiết trong mọi kế hoạch, hoạt động phát triển mà chương trình giáo dục mầm non dành cho trẻ. Họ chính là người hiểu trẻ nhất vì là người luôn chăm sóc và gần gũi với con mình. Bên cạnh đó, hơn ai hết, các bậc phụ huynh là những người mong đợi sự phát triển của con mình nhất, đặc biệt là sự phát triển về thể chất, giao tiếp và ngôn ngữ. Chính họ sẽ là người kiên trì theo đuổi, phấn đấu đến cùng cho sự phát triển và tương lai của con cái.
Vì vậy, trong giáo dục mầm non, việc tạo ra sự liên hệ, sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và phụ huynh là việc hết sức cần thiết, đóng vai trò quyết định đến hiệu quả trong công tác giáo dục trẻ và là nền tảng bậc thang phát triển của trẻ sau này. Bởi thế mà công tác phối hợp với phụ huynh của giáo viên vô cùng quan trọng.
“Cô và mẹ là hai cô giáo, mẹ và cô ấy hai mẹ hiền”. Chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của mẹ và cô giáo luôn song hành với nhau. Chính vì vậy tôi là lựa chọn biện pháp “Chú trọng làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với phụ huynh”.
Đa số phụ huynh có con học ở độ tuổi 24-36 tháng đều rất thương chiều con. Trẻ đang còn nhỏ và vẫn bám bố mẹ. Phụ huynh sẽ đặt ra rất nhiều câu hỏi như: Cho con đi học ở thời điểm này có đúng đắn không? Liệu con sẽ ăn ngủ như thế nào? Có được quan tâm chăm sóc cẩn thận, có được an toàn không?
Tuy nhiên, các cô giáo ở trường với nhiều năm kinh nghiệm đều thấu hiểu tâm trạng của các bố mẹ, các cô sẽ dỗ dành con cũng như giúp con thích nghi với môi trường mới. Chắc chắn thời gian đầu con cũng thấy bất an và không muốn mẹ đi đâu cả, con còn khóc nữa nhưng rồi tất cả sẽ ổn thôi, miễn là mẹ và con cố gắng và quyết tâm.
Là giáo viên mầm non được phân công dạy lớp nhà trẻ, tôi rất yêu quý công việc của mình và luôn yêu thương chăm sóc trẻ như con của mình. Vậy nên cha mẹ đừng quá lo lắng hay sợ con không thể thích nghi mà bỏ qua cơ hội để con được phát triển tốt nhất trong môi trường học tập lý tưởng.
Trước tiên tôi sẽ tổ chức cuộc họp phụ huynh đầu năm mời 100% phụ huynh đến thống nhất các biện pháp chăm sóc và nuôi dạy trẻ đồng thời cũng để trao đổi tính cách, thói quen ăn uống sinh hoạt của trẻ khi ở nhà để cô có thể nắm bắt được từng trẻ.
Tôi cũng lập ra nhóm zalo nhóm lớp để có thể trao đôi thông tin hàng ngày của trẻ tới phụ huynh. Phụ huynh xem được hình ảnh, video của con mình khi ở lớp tạo sự tin tưởng và yên tâm giao con cho các cô. Đồng thời qua trang zalo nhóm lớp các nội dung cần kết hợp với phụ huynh để dạy trẻ khi ở nhà cũng được tôi quan tâm tác động để phụ huynh chụp ảnh, quay video, trao đổi kịp thời tình hình của trẻ khi ở nhà.
Những ngày đầu đến lớp, trẻ chưa quen cô chưa quen bạn, chưa bắt nhịp được với hoạt động học, tôi mời phụ huynh cùng tham gia một số hoạt động ở lớp cùng với con để trẻ có thể tự tin giao tiếp cùng cô khi đến lớp.
Khi trẻ đã quen cô, quen lớp tôi tách dần phụ huynh ra để trẻ có thể tự lập và trải nghiệm. Khi phụ huynh được xem những hình ảnh, video giờ học, giờ chơi tập hay giừ ăn, ngủ của các con tại lớp phụ huynh sẽ cảm thấy yên tâm hơn, tin tưởng hơn vào giáo viên và nhà trường. Phụ huynh cho trẻ đi học đều hơn và thấy được sự thay đổi tiến bộ mỗi ngày của con mình khi về nhà.
Từ đó, phụ huynh sẽ là người tuyên truyền, vận động cho trẻ đi học. Các phụ huynh khác sẽ thấy được sự thay đổi và tiến bộ của trẻ và phụ huynh thấy tin tưởng hơn, cho trẻ đi học sớm.
III.2 Tính mới, tính sáng tạo
2.1. Tính mới
Giáo viên đã tìm hiểu xây dựng kế hoạch chăm sóc giáo dục phù hợp với độ tuổi nhà trẻ. Do độ tuổi còn nhỏ nên kiến thức, kỹ năng trẻ tiếp thu được phải đơn giản, dễ hiểu và ngắn gọn. Đồng thời việc xây dựng môi trường giáo dục, đối với trẻ nhà trẻ lúc nào cũng yêu thích cái mới nhưng cũng phải gần gũi với trẻ.
Tôi đã xây dựng môi trường với những hình ảnh gần gũi, thân thuộc với trẻ nhưng không mẫu giáo hoá phù hợp với đúng lứa tuổi của trẻ. Tôi chú trọng đến việc thay đổi môi trường giáo dục trong lớp và ngoài lớp theo từng chủ đề tạo sự mới mẻ để trẻ không cảm thấy nhàm chán. Tôi cho trẻ được hoạt động, được khám phá, được chơi với đồ chơi chứ không phải chỉ ngắm nhìn. Từ đó, trẻ sẽ thích ứng nhanh với môi trường mới mà trẻ thích.
Đối với độ tuổi 24-36 tháng chăm sóc luôn đi đầu. Việc tìm hiểu tâm lý trẻ giúp tôi có kiến thức cũng như kỹ năng để giải quyết nhu cầu mong muốn của trẻ. Tôi cũng sẽ tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện, được làm theo đúng khả năng của mình. Từ đó, trẻ sẽ thấy cô giáo là người hiểu mình nhất và trẻ sẽ đến gần với cô hơn, coi cô như một người mẹ thứ hai.
Phụ huynh đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao tỷ lệ trẻ ham thích đến lớp. Với thời đại công nghệ thông tin hiện đại, tôi đã trao đổi, chia sẻ thông tin tới các bậc phụ huynh về tình hình của trẻ tại lớp thông qua những hình ảnh, video để phụ huynh thấy được sự thay đổi của con khi đi học.
Nhờ vậy, phụ huynh có thể tin tưởng và yên tâm hơn. Phụ huynh không cần phải mong ngóng đến giờ đón trẻ mới biết được tình hình của con khi ở lớp.
2.2. Tính sáng tạo
Bản thân tôi luôn tích cực làm đồ dùng đồ chơi hấp dẫn thu hút trẻ, tạo môi trường giáo dục mở cho trẻ được hoạt động. Tôi làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo, thường xuyên thay đổi hình ảnh theo từng chủ đề, vị trí góc chơi để trẻ cảm thấy môi trường ở lớp luôn sinh động, không bị nhàm chán, tạo hứng thú cho trẻ khi đến lớp.
Đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động thu hút trẻ bằng cách điều chỉnh thói quen sinh hoạt của trẻ khi đến trường chứ không thay đổi đột ngột làm ảnh hưởng đến sức khoẻ cũng như tâm lý trẻ. Mỗi trẻ có một tính cách khác nhau nên đối với mỗi hoạt động tôi dùng hình thức khác nhau để trẻ nhanh quen.
Tôi không ép buộc trẻ, cũng không rèn trẻ dập khuôn mà để cho trẻ phát triển tự nhiên theo đúng hướng. Tôi sẽ là người luôn ở bên, đồng hành và trải nghiệm cùng trẻ như một người bạn, một người thân để trẻ có thể dựa dẫm và chia sẻ.
Tôi làm tốt công tác tuyên truyền, truyền thông đến 100% tới các bậc phụ huynh. Ngay từ những ngày đầu năm học, trẻ được đến lớp làm quen cô và các bạn, tôi sẽ mời phụ huynh tham gia một số hoạt động cùng con. Phụ huynh sẽ được học, chơi trò chơi,…cùng con ngay tại lớp.
Điều này cũng giúp trẻ nhanh quen với cô hơn cũng giúp phụ huynh tin tưởng vào cô giáo, cũng là một cách thay đổi suy nghĩ của phụ huynh những trẻ trong độ tuổi nhà trẻ đến trường cũng được học, cũng được tham gia các hoạt động, chứ không phải trẻ đến trường chỉ cần các cô trông. Phụ huynh sẽ thấy được sự thay đổi của con mình khi về nhà, con sẽ ngoan hơn, hiểu biết hơn, thích đi học hơn. Đây chính là kết quả mong muốn của giáo viên và phụ huynh.
III.3 Phạm vi ảnh hưởng, khả năng áp dụng của sáng kiến.
Sáng kiến của tôi đã được Ban giám hiệu và hội đồng thẩm định sáng kiến cấp trường đánh giá cao về tính khả thi cũng như hiệu quả khi áp dụng tại lớp tôi. Đây là một trong những sáng kiến rất dễ thực hiện, gần gữi mang lại hiệu quả cao, trẻ thích đến lớp tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần cao.
Đối với các biện pháp tôi đưa ra ở trên có khả năng áp dụng không phải chỉ ở một trường tôi đang dạy mà có thể áp dụng với tất cả các cơ sở giáo dục mầm non từ công lập đến tư thục trên toàn huyện. Sáng kiến tôi đưa ra một số giải pháp mang lại hiệu quả giáo dục cao, không tốn kém nhiều đến chi phí, chỉ cần giáo viên sắp xếp công việc một cách hợp lý, có kế hoạch ngay từ đầu khi được phân công nhận lớp.
Giáo viên luôn chịu khó học hỏi cũng tìm hiểu, nhờ sự giúp đỡ của Ban giám hiệu và đồng nghiệp để trau dồi thêm về kỹ năng nghiệp vụ và khả năng sư phạm. Giáo viên chỉ cần chăm sóc và giáo dục trẻ bằng tình yêu của người mẹ, bằng tấm lòng và đạo đức của giáo viên. Và tôi tin rằng, nếu giáo viên nào cũng luôn nỗ lực trong chuyên môn, mẫu mực trong đạo đức thì học sinh, cha mẹ học sinh sẽ đều tin tưởng, ủng hộ và yêu cô.
Với thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, việc tuyên truyền với phụ huynh cũng mang lại hiệu quả cao hơn. Phụ huynh được theo sát các hoạt động của con khi ở trường. Phụ huynh sẽ yên tâm, tin tưởng hơn khi giao con cho cô giáo, Và chính phụ huynh sẽ là người tuyên truyền vận động cho trẻ ra trường đi học sớm.
III.4 Hiệu quả thu được do áp dụng giải pháp
III.4.1 Hiệu quả kinh tế
Sáng kiến đưa ra một số giải pháp mang lại hiệu quả kinh tế cao, hiệu quả giáo dục cao, không tốn kém, chỉ cần sắp xếp tời gian làm việc một cách hợp lí, lòng nhiệt tình trong công việc, thường xuyên nghiên cứu phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ một cách nghiêm túc.
III.4.2 Hiệu quả về mặt xã hội.
* Đối với giáo viên:
Bản thân tôi nắm rất chắc nội dung, phương pháp giáo dục để tạo hứng thú cho trẻ đến lớp.
Giúp tôi có những hiểu biết hơn về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ trong độ tuổi nhà trẻ, từ đó vận dụng linh hoạt vào các hoạt động để trẻ ham thích đến lớp.
Giáo viên tích cực làm đồ dùng đồ chơi tự tạo hấp dẫn thu hút sự chú ý, hứng thú của trẻ đến lớp. Những đồ dùng, đồ chơi tự tạo ngộ nghĩnh, đáng yêu, màu sắc đẹp, gần gũi đó đã làm cho trẻ thích thú muốn được chơi, hoạt động với chúng, kích thích được tính tò mò, khám phá của trẻ, làm trẻ chú ý, tham gia tích cực các hoạt động và ham thích đến lớp để chơi với những đồ chơi đó.
Xây dựng môi trường trong lớp, ngoài lớp học lấy trẻ làm trung tâm. Môi trường trong lớp, ngoài lớp sạch sẽ thoáng mát đáp ứng nhu cầu, hứng thú chơi của trẻ, tạo điều kiện cho tất cả trẻ có thể chơi “mà học, học bằng chơi”.
Tạo sự gần gũi với trẻ và đặt lòng yêu quý trẻ lên hàng đầu đã mang lại hiệu quả thiết thực cho cô và trẻ. Cô thực sự là bạn của trẻ, trẻ đến lớp thấy thích thú, có tình cảm với cô với các bạn, mạnh dạn, tự tin tham gia vào các hoạt động ở lớp.
* Đối với trẻ:
Trẻ vui vẻ hơn, phấn khởi hơn khi đến lớp.
Trẻ yêu cô hơn, gần gũi với cô hơn, hoà đồng với các bạn, biết chơi với các bạn.
Trẻ có những tiến bộ rõ rệt, trẻ trầm, nhút nhát nay thì năng động, mạnh dạn, tự tin lên; trẻ hiếu động thì ngoan ngoãn hơn.
Trẻ hứng thú tham gia các hoạt động của lớp và ngày càng hứng thú, ham thích đến lớp.
Trẻ đi học đều tỷ lệ chuyên cần lớp cao
* Đối với phụ huynh:
Các bậc phụ huynh thấy được sự tiến bộ của con mình khi thấy trẻ đi học không còn quấy khóc, gần gũi với cô giáo, không còn lạ bạn lạ cô, trẻ ham thích đến lớp hơn.
Các bậc phụ huynh ngày càng tin tưởng vào cô giáo, yên tâm hơn và cho trẻ đi học đều.
Phụ huynh thấy được vai trò cũng như tầm quan trọng của nhà trường, của cô giáo trong việc chăm giáo dục trẻ 24-36 tháng.
III.4.3 Giá trị làm lợi khác
Sáng kiến kinh nghiệm này phù hợp với chương trình giáo dục mầm non mới hiện nay nhằm hướng đến việc tạo hứng thú, sự ham thích đến lớp của trẻ.
Các giải pháp tôi đưa ra rất phù hợp với xu hướng phát triển và tiến bộ chung của xã hội. Từ việc xây dựng kế hoạch rõ ràng, cụ thể phù hợp với điều kiện của lớp mình đã giúp cho giáo viên có một phương pháp làm việc khoa học, nề nếp, có tác dụng phát huy vai trò chủ động của từng giáo viên để thực hiện tốt việc giúp trẻ ham thích đến lớp nói riêng và nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ nói chung.
| CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN | TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Nguyễn Thị Trang |